Công dụng của cây dược liệu cam thìa

Cây cam thìa còn được dân gian gọi là cây hoa mật. Nhưng hoa của loài cây này thì lại không “ngọt như mật”; mà là vị “đắng như mật”. Và nó không chỉ đắng, mà hoa của nó còn có vị mặn nữa.

Trong y học cổ truyền, hoa cam thìa là một vị thuốc điều trị khó thở, căng tức ngực. Ngoài ra loài cây này còn được dùng điều trị ho suyễn, ho đờm (nhờ có tính ấm). Điều thú vị hơn nữa là hoa cam thìa đắng nhưng toàn cây cam thìa thì lại không có vị đắng mà lại có vị cay (cay nhưng lại có tính mát). Cho nên, nhiều năm qua, dân gian ta thường dùng cây này để làm thuốc tả hỏa, giải độc, giảm đau.

Mô tả chung về cây cam thìa

Tên tiếng Việt: Cam hoẵng, Mật đất, Cam thìa, Mao liên thái

Tên khoa học: Picris hieracioides L.

Họ: Asteraceae (Cúc)

Công dụng: Chữa sốt, sốt rét, ho, ợ chua (cả cây).

Cây thảo, sống hai năm, cao 0,3 – 1,2m, có lông dày. Lá mọc so le, hình mác, có lông thô, gốc thuôn, đầu nhọn, mép có răng cưa.
Cụm hoa mọc ở đầu cành thành tán hay ngù, cuống mang lá bắc ở gần ngọn, gồm những đầu có lông dày; lá bắc trong và ngoài nhỏ; hoa toàn hình lưỡi màu vàng, mào lông màu trắng bẩn, có sợi ngắn; đài có 5 răng; nhị 5; bầu nhẵn.
Quả bế, hình thoi, thuôn ở đầu, dài 2,5mm, có 5 sống dọc.

Mô tả chung về cây cam thìa

Phân bố, sinh thái của cây cam thìa

Chi Picris D. Don gồm một số cây thân cỏ, phân bố ở vùng ôn đới ấm và á nhiệt đới núi cao. Ở Việt Nam, hiện nay mới phát hiện được một loài là cây cam thìa. Loài này có nhiều ở Trung Quốc, một số nước ở vùng Đông Bắc Á và Ấn Độ. Ở Việt Nam, cây phân bố rải rác ở một số vùng núi cao trên 1500m, như Sa Pa (Lào Cai); Đồng Văn, Mèo Vạc và Quản Bạ (Hà Giang).

Cây ưa khí hậu ẩm mát, nhiệt độ trung bình dưới 20°c, thường mọc thành đám hay rải rác, xen lẫn trong các trảng cỏ, có cây bụi thấp ở ven đôi, ven dường đi và nương rẫy mới bỏ hoang. Cây thường sống tới năm thứ hai mới có hoa quả, sau đó tự tàn lụi. Hạt có túm lông, phát tán nhờ gió đi khắp nơi. Bộ phận dùng của cây là lá hoặc cả cây, thu hái khi cây chưa có hoa, phơi hoặc sấy khô.

Xem thêm các bài viết về Bài thuốc dân gian tại đây.

Thành phần hóa học của cây cam thìa

Picris hieracioides subsp. hieracioides chứa loliolid. (CA, 121, 297126k).
Picris hieracioides subsp.japónica. Toàn cây chứa 4 terpen glucosid là picrosid A, picrosid B, picrionosid A, picrionosid B. Ngoài ra, còn có icarisid Bj, roseosid và sonchuionosid (Uchiyama Taketo (CA 114, 78618z).
Rễ tươi chứa nhiều chất triterpen : gamacer – 16 – en – 3β – yl acetat, gamacer – 16 – en – 3β – ol, gamacer -16 – en – 3α – ol, gamacer – 16 – en – 3 – on, pichierenyl acetat, pichierenon, isopichierenyl acetat, isopichierenol (CA 124, 25027b), olean – 12 – en – 2β, 3β, 22α – triol, urs – 12 – en – 2β, 3β, 22α – triol,urs – 12 – en – 2β, 3β, 28 – triol, ofean – 12 – en – 2β – 3β – 28 – triol (CA 124, 25628c).

Công dụng của cây cam thìa trong chữa bệnh

Cam thìa chữa ho nhiều đờm, hen suyển, tức ngực, trướng bụng. Dân tộc Mường, Cao Lan dùng lá hoặc cả cây cam thìa thu hái khi cây chưa có hoa để chữa sốt, sốt rét, kiết lỵ kinh niên. Mỗi ngày dùng 20 – 30g sắc với 400ml nước còn 100ml uống làm 2 lần trong ngày.
Viện Y học cổ truyền đã dùng bài thuốc chữa sốt rét gồm nhiều vị, trong đó có cây cam thìa đạt kết quả tốt như sau:

Công dụng của cây cam thìa trong chữa bệnh

Tất cả tán nhỏ, rây bột mịn. Người lớn uống mỗi ngày 2 lần vào trước 2 bữa ăn một giờ; mỗi lần 4g với nước đun sôi để nguội. Uống trước cơn sốt một giờ nếu có sốt rét. Trẻ em tùy tuổi dùng liều cho thích hợp. Uống liên tục trong khoảng một tháng.

Bài thuốc kết hợp điều trị sốt rét của Viện y học cổ truyền

Chuẩn bị:

  • 100 g cam thìa (dùng cả cây, bao gồm rễ, cành và lá); chặt nhỏ ra, đem phơi khô rồi tẩm rượu và sao vàng lên.
  • 50 g lá cây thường sơn (đã tước bỏ sống lá và cuống lá rồi đem ngâm với nước vo gạo hai ngày hai đêm, mỗi ngày thay nước vo gạo một lần, sau đó vớt ra, xắt nhỏ, tẩm rượu, sao vàng).
  • 50 g rễ cây hà thủ ô trắng (đã chế).
  • 30 g vỏ quả chanh đã phơi khô.
  • 30 g thảo quả sao cháy vỏ bên ngoài để lấy hạt.
  • 30 g hạt cau (hạt cau nhà hay hạt cau rừng đều được).
  • 30 g miết giáp – tức mai của con ba ba đã phơi hay sấy khô (đem tẩm giấm rồi nướng vàng làm 3 lần).
  • 20 g cam thảo Bắc (sao qua).
  • 20 g hậu phác.

Thực hiện: lấy các vị trên xay, nghiền cho nát thành bột rồi phơi cho khô hẳn để dùng nhiều lần.

Liều lượng: Nếu là người lớn thì mỗi lần uống 4 g bột thuốc (uống bằng nước sôi để nguội), ngày uống hai lần và uống trước bữa ăn 1 tiếng (nếu sốt rét cơn thì uống trước cơn sốt 1 tiếng đồng hồ). Với trẻ nhỏ thì cần giảm liều lượng theo hướng dẫn của thầy thuốc (tùy theo độ tuổi).

Thời gian uống: Thuốc này uống liên tục 1 tháng thì ngưng.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *